Ninh Bình được biết đến là vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, là nơi sinh ra những anh hùng hào kiệt lừng danh tên tuổi trong lịch sử Việt Nam như vua Đinh Tiên Hoàng, danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu, thượng thư Ninh Tốn,… Ninh Bình là nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc ta hàng ngàn năm nay, như sự kiện dời đô của vua Lý Công Uẩn, Vua Quang Trung tiến đánh đại phá quân Thanh,…
Với bề dày lịch sử lâu đời mà vùng đất này sở hữu nhiều những di tích lịch sử nổi tiếng, trong đó có những di tích lịch sử Ninh Bình được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Ninh Bình sở hữu đến 1.821 di tích, trong đó có 405 di tích cấp tỉnh và 95 di tích lịch sử cấp quốc gia. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu chi tiết 11 khu di tích lịch sử Ninh Bình nổi tiếng, được công nhận di tích quốc gia qua bài viết dưới đây.
Nội dung
Di tích Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng
Đền thờ Đinh Tiên Hoàng là một trong những di tích lịch sử quan trọng thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của quần thể di sản cố đô Hoa Lư. Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng tọa lạc ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Nơi đây chính là địa điểm duy nhất tại Việt Nam thờ cúng đồng thời Vua Đinh Tiên Hoàng, cùng gia đình và các tướng lĩnh của vương triều nhà Đinh. Kiến trúc của đền pha trộn giữa kiểu cách phương đông và phương tây, có trục chính hướng về phía đông. Đặc biệt, đền được xây dựng trên nền cung điện kinh đô Hoa Lư xưa, với nhiều cổ vật quý hiếm như gạch hoa sen khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên và cột kinh Phật khắc chữ Phạn.
Khuôn viên của đền được thiết kế theo kiểu đăng đối trên trục thần đạo, bắt đầu từ hồ bán nguyệt và kết thúc ở Chính cung. Trên con đường này có các cấu trúc như hồ bán nguyệt, bức bình phong và các cổng ngoại, trong đó nổi bật là Ngọ môn quan với hai con lân vờn mây trên vòm cửa cong. Bên trong, Nghi môn cũng được những người thợ điêu khắc trang trí một cách hoa mỹ. Đến với sân rồng, có long sàng và hai con nghê đá chầu, tượng trưng cho sự uy nghi và quyền uy của vương triều nhà Đinh.
Nơi thờ Chính của đền bao gồm Bái đường và chính cung, trong đó điện thờ của Vua Đinh Tiên Hoàng được đặt ở trung tâm. Bên trong đền thờ được thiết kế độc đáo với ngai thờ được trang trí sơn son thếp vàng, đặt trên bệ có hai con rồng chầu. Bức đại tự trên ngai vàng ca ngợi sự khả năng cầm quân tài ba, cùng tài trị nước thương dân của Đinh Bộ Lĩnh.
Đền Đinh Tiên Hoàng không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà còn là nơi lưu giữ nhiều cổ vật quý giá. Nơi đây còn được nhiều nhà phê bình đánh giá đền Đinh Tiên Hoàng được xem là minh chứng rõ nét nhất cho nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh tế của người dân Việt Nam vào thế kỷ 17.
Với những giá trị văn hóa và lịch sử to lớn đó mà đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng đã được xếp vào top 100 công trình kiến trúc, di tích lịch sử nổi tiếng nhất Việt Nam. Ngoài ra, vào năm 2014, UNESCO công nhận đền vua Đinh cùng các công trình kiến trúc tại cố đô Hoa Lư là quần thể di sản thế giới tại Tràng An, Việt Nam.
Khu di tích đền thờ Vua Lê Đại Hành
Đền Vua Lê Đại Hành là một trong những di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng, tọa lạc trong khu di tích quốc gia đặc biệt thuộc cố đô Hoa Lư, Ninh Bình. Đền thờ này là nơi thờ cúng của vua Lê Đại Hành, cùng thái hậu Dương Vân Nga, vua Lê Long Đĩnh, công chúa Lê Thị Phất Ngân và vị danh tướng Phạm Cự Lượng. Đền nằm gần đền vua Đinh Tiên Hoàng, thuộc hành đông của kinh đô Hoa Lư xưa, hiện nay thuộc làng cổ Yên Thành, xã Trường Yên.
Dù quy mô đền thờ vua Lê Đại Hành được xây dựng nhỏ hơn so với đền vua Đinh Tiên Hoàng, nhưng đền thờ vua Lê vẫn mang lại một không gian gần gũi và trang nghiêm. Kiến trúc của đền cũng được kết hợp giữa nội công và ngoại quốc, cùng với không gian trước đền là khu quảng trường và núi Đèn, phía sau là hào nước bảo vệ cố đô.
Những công trình kiến trúc của đền bao gồm những di tích như Nghi môn ngoại, có hòn non bộ hình chim phượng và hòn non bộ “Hổ phục”, cùng với hồ nước rộng. Nghi môn nội là nơi hai vườn hoa và hai dãy nhà vọng nằm, với các hòn non bộ “Phượng ấp” và “Long Mã” đặc trưng.
Bên trong đền có ba tòa nhà rộng lớn là Bái đường, Thiêu hương (thờ Phạm Cự Lượng) và chính cung (thờ Lê Hoàn, Lê Long Đĩnh và hoàng hậu Dương Vân Nga). Đặc biệt, nghệ thuật chạm khắc gỗ ở thế kỷ 17 được lưu giữ tại nơi đây đã thể hiện được nét điêu luyện và tinh xảo của các nghệ nhân.
Với những giá trị văn hóa và lịch sử quý báu được lưu giữ nơi đây mà vào năm 1990, đền thờ vua Lê Đại Hành đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Ninh Bình được công nhận di tích cấp quốc gia. Đến năm 2018, đền thờ vua Lê lại được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Khu di tích Núi chùa Bái Đính Ninh Bình
Chùa Bái Đính là một trong những quần thể chùa lớn nhất tại Ninh Bình, với nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam. Núi chùa Bái Đính tọa lạc tại cửa ngõ phía tây của khu di tích cố đô Hoa Lư, nằm bên cạnh quốc lộ 38B, thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 15km và Hà Nội khoảng 95km.
Chùa Bái Đính là ngôi chùa có lịch sử hình thành lâu đời, khi chùa được bắt đầu khởi công và xây dựng từ hơn 1000 năm trước. Đền được tiến hành xây dựng vào thời điểm khi các triều đại Việt Nam xưa như nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, các triều đại phong kiến khác đều rất chú trọng đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo.
Quần thể chùa Bái Đính bao gồm khu chùa cổ và khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Khu chùa Bái Đính cổ bao gồm một số công trình kiến trúc nổi tiếng như: hang sáng động tối, Đền thờ thánh Nguyễn, Đền thờ thần Cao Sơn, Giếng ngọc,…
Kiến trúc của chùa mới mặc dù được xây dựng hoành tráng và đồ sộ, nhưng vẫn giữ được những nét đẹp văn hóa và truyền thống của người Việt. Chùa Bái Đính mới được xây dựng với các hình khối lớn, sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương như đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết và ngói men Bát Tràng. Các công trình như cổng Tam Quan, tháp chuông, điện Quan Âm, điện Pháp Chủ, điện Tam Thế… đều mang nét đẹp và sự trang nghiêm của kiến trúc Phật giáo.
Chùa Bái Đính còn nổi tiếng với các tượng Phật và thần lớn nhất Việt Nam, như tượng Phật Di Lặc nặng 80 tấn và tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao 9.57 m. Nơi đây cũng là nơi lưu giữ nhiều kỷ lục về đền thờ và kiến trúc Phật giáo.
Vào năm 1997, khu di tích lịch sử chùa Bái Đính đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những khu di tích lịch sử Ninh Bình, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa lịch sử cấp quốc gia.
Khu di tích lịch sử Ninh Bình – Chiến khu Quỳnh Lưu
Chiến khu Quỳnh Lưu, hay được biết đến là vùng ATK Quỳnh Lưu, là một căn cứ địa cách mạng quan trọng trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Nhật. Chiến khu được thành lập vào ngày 3/2/1945 trên địa bàn 7 xã là Sơn Lai, Sơn Thành, Phú Long, Phú Lộc, Quỳnh Lưu, Gia Phong, Gia Sinh thuộc tỉnh Ninh Bình.
Sau khi thực dân Pháp chiếm đóng Ninh Bình, Pháp đã cho thiết lập một bộ máy cai trị chặt chẽ và hà khắc, nhằm kiểm soát mọi hoạt động của quân cách mạng trong tỉnh. Tuy nhiên, phong trào cách mạng lúc này đang trong giai đoạn phát triển, bắt đầu từ thôn Lũ Phong, xã Quỳnh Lưu. Sau đó lan rộng sang các huyện khác như Yên Mô, Gia Viễn và Gia Khánh. Những sự kiện như việc cắm cờ đỏ búa liềm trên đỉnh núi Non Nước đã tăng thêm sĩ khí cho tinh thần cách mạng của quân và dân ta.
Đến năm 1938, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã tổ chức Đại hội đại biểu đầu tiên tại thôn Đồi Dâu, xã Sơn Lai, huyện Nho Quan, nhằm bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội này đã đánh dấu sự bước tiến của phong trào cách mạng tại tỉnh Ninh Bình.
Sau đó, quân Nhật kéo vào Ninh Bình vào năm 1943, nhưng phong trào cách mạng vẫn tiếp tục phát triển. Lúc này, chiến khu Quỳnh Lưu được thành lập để đối phó và đã góp phần vào việc mở rộng vùng giải phóng sang các huyện lân cận. Điều này đã dẫn đến việc thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Ninh Bình vào ngày 25/8/1945.
Ngày nay, chiến khu Quỳnh Lưu vẫn là một địa bàn quan trọng về quân sự, với sự hiện diện của hai đơn vị bộ đội là Lữ đoàn 241 và Lữ đoàn 202. Địa bàn này bao gồm 7 xã, có diện tích 107km² và dân số khoảng 37,080 người vào năm 1999. Với sông Hoàng Long bao quanh phía đông bắc và dãy núi ở phía đông nam và tây nam, chiến khu Quỳnh Lưu vẫn là một điểm nóng về an ninh và quốc phòng.
Vào ngày 22 tháng 8 năm 1998, Khu di tích lịch sử chiến khu Quỳnh Lưu đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Ninh Bình nổi tiếng, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Di tích lịch sử Phòng tuyến Tam Điệp
Phòng tuyến Tam Điệp là một trong những khu di tích lịch sử Ninh Bình nổi tiếng, là dấu ấn sâu đậm của cuộc chiến giữa quân Thanh và nghĩa quân Tây Sơn. Phòng tuyến Tam Điệp nằm ở dãy núi Tam Điệp, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa miền Bắc và miền Trung.
Vào năm 1788, khi quân Thanh xâm lược, Ngô Thì Nhậm đã chọn đèo Tam Điệp làm căn cứ quân sự để ngăn cản đợt tấn công này. Với vị trí chiến lược và địa hình hiểm trở, Tam Điệp trở thành điểm chốt quan trọng giữa hai miền. Đây cũng là nơi mà Nguyễn Huệ lập kế hoạch và đại phá quân Thanh trong một trận chiến.
Quân Tây Sơn đã đóng quân tại Tam Điệp trong 140 ngày, và nhận được sự ủng hộ từ người dân nơi đây. Trong thời gian này, nhiều tướng lĩnh địa phương như Đinh Huy Đạo, Ninh Tốn đã đóng vai trò quan trọng, góp công vào chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn. Vào ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15/1/1789), vua Quang Trung đã hội quân tại đây và tuyên bố chiến thắng.
Khu di tích phòng tuyến Tam Điệp bao gồm nhiều địa danh nổi tiếng như đèo Ba Dội, núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, chùa Dâu, đền Quán Cháo,…. và nhiều luỹ địa khác. Đây là những nơi ghi nhận sự oai hùng của quân Tây Sơn và vua Quang Trung trong cuộc chiến chống lại quân Thanh.
Phòng tuyến Tam Điệp đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998.
Di tích lịch sử Động Hoa Lư Ninh Bình
Động Hoa Lư, hay còn được biết đến với tên gọi thung lũng Lau, là một trong những di tích lịch sử và văn hóa nổi tiếng ở xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Động Hoa Lư là nơi mà sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, người sau này trở thành vua Đinh Tiên Hoàng, đã lập căn cứ đầu tiên trong cuộc hành trình thống nhất đất nước vào thế kỷ 10. Động nằm cách cố đô Hoa Lư khoảng 15 km và thành phố Ninh Bình 20km về phía Bắc.
Động Hoa Lư nằm trong một thung lũng rộng khoảng 16 mẫu đất, được bao bọc bởi các ngọn núi vòng cung. Động chỉ có một lối vào duy nhất, là một quèn nhỏ cao khoảng 30 m, và được bao quanh bởi đầm Cút như một chiến hào được tạo nên bởi thiên nhiên.
Trong lịch sử, nơi đây được biết đến là nơi sinh của vua Đinh Tiên Hoàng. Truyền thuyết kể rằng, ông đã lớn lên và chiêu binh mãi mã tại đây. Sau này, ông đã tiến hành các cuộc tập trận và luyện cờ lau trong thung Lá và thung Lụi gần đó.
Về nguồn gốc tên gọi “Hoa Lư”, có nhiều giải thích khác nhau. Một số chuyên gia cho rằng, “Hoa Lư” có thể hiểu là hoa lau, do cảnh quan xung quanh động được phủ đầy cây lau. Cách giải thích khác nói rằng, “Hoa Lư” có thể là cổng làng Hoa, với chữ “Lư” mang ý nghĩa cổng làng. Một giải thích khác liên quan đến việc “Hoa Lư” được hiểu là cái lò hoa.
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và thánh Nguyễn Minh Không nằm giữa động Hoa Lư, được xây trên nền dinh luỹ cổ xưa của vua Đinh. Sau này, đền đã được tu sửa và mở rộng để trở thành một điểm du lịch lịch sử đặc biệt, thu hút du khách từ khắp nơi.
Vào ngày 1 tháng 12 năm 1996, Khu di tích động Hoa Lư đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những khu di tích lịch sử Ninh Bình được công nhận là khu di tích lịch sử cấp quốc gia.
Khu di tích Hành cung Vũ Lâm Ninh Bình
Hành cung Vũ Lâm là một khu căn cứ quân sự vào thời nhà Trần tại kinh đô Hoa Lư xưa, đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống lại quân xâm lược Nguyên Mông. Hành Cung được đưa vào xây dựng dưới triều vua Trần Thái Tông. Ban đầu, hành cung được sử dụng bởi các vị vua Trần xuất gia tu hành, mở mang phật giáo.
Trận đánh quân Mông-Nguyên tại hành cung Vũ Lâm vào năm 1285 do hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông chỉ huy đã đánh tan quân Mông Nguyên. Địa điểm của trận đánh, Thung lũng đá vôi Thiện Dưỡng, cho đến nay vẫn là nơi kỷ niệm với cánh đồng “Cửa Mả” và Thung lũng “Mồ” – nơi được coi là “đất chiến địa”.
Hiện nay, di tích hành cung Vũ Lâm thuộc khu vực di sản thế giới Tràng An, Ninh Bình, và đã trở thành điểm du lịch với nhiều di tích lịch sử như Cửa Quan, Hành Cung, Cống Rồng, v.v… và 24 ngôi chùa cổ từ thời Trần. Cùng với đó, các tên địa danh như làng Tuân Cáo, làng Hành Cung vẫn giữ được dấu ấn lịch sử với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên vào năm 1285.
Hành cung Vũ Lâm đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những khu di tích lịch sử Ninh Bình được công nhận di tích quốc gia vào năm 1998. Đến năm 2014, khu di tích Hành Cung Vũ Lâm đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thiên nhiên và thế giới.
Di tích Đền thờ Công chúa Phất Kim
Đền thờ Công chúa Phất Kim, hay còn được biết phủ Bà Chúa, là một ngôi đền nhỏ thuộc quần thể di tích cố đô Hoa Lư ở tỉnh Ninh Bình. Đền thờ nằm tại làng cổ Yên Thành, gần trung tâm kinh đô Hoa Lư, và nằm giữa hai điểm đến quan trọng khác là đền Vua Lê Đại Hành và phủ Vườn Thiên, cách đều 2 nơi này khoảng 300m.
Đền Phất Kim bao gồm ba tòa nhà được xếp kiểu chữ môn hướng vào sân chính ở giữa, được xây trên nền nhà của cung Vọng Nguyệt, nơi trước đây công chúa Phất Kim từng ở. Trước sân đền có một cái giếng lớn hình lục lăng. Nơi đây được cho là nơi công chúa Phất Kim tự vẫn.
Công chúa Phất Kim là con gái của Đinh Tiên Hoàng, được gả cho Ngô Nhật Khánh, một sứ quân đầu hàng thuộc dòng dõi quý tộc nhà Ngô. Tuy nhiên, sau những biến cố trong cuộc đời, công chúa Phất Kim chịu nhiều đau đớn và tuyệt vọng. Cuối cùng cô phải tự vẫn bằng cách nhảy xuống giếng nước lầu Vọng Nguyệt ở phía tây bắc kinh đô Hoa Lư.
Khu di tích đền thờ công chúa Phất Kim đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những khu di tích lịch sử Ninh Bình nổi tiếng, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Khu di tích lịch sử Phủ Vườn Thiên
Phủ Vườn Thiên, hay còn được biết đến là đền thờ hoàng tử Lê Long Thâu, là một trong những di tích lịch sử Ninh Bình nổi tiếng, được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1998. Di tích phủ Vườn Thiên nằm trong khu bảo tồn đặc biệt của khu di tích cố đô Hoa Lư, Ninh Bình. Phủ này cách trung tâm của khu di tích Hoa Lư khoảng 600m, và nằm gần đền thờ của Công chúa Phất Kim.
Phủ Vườn Thiên có kiến trúc tương tự như một ngôi đền, với ba tòa chầu hướng vào sân giữa. Nó thực ra là nơi thờ phụng hoàng tử Lê Long Thâu, con trưởng của vua Lê Đại Hành. Lê Long Thâu được phong làm Kình Thiên Đại Vương năm 989 và qua đời năm 1000.
Tên gọi “Kình Thiên” có ý nghĩa là “chống trời”, được cho là vị quản lý Tháp Tư thiên, một công trình quan sát thiên văn xây dựng tại Hoa Lư. Tháp này có nhiệm vụ dự đoán thời tiết, đáng chú ý trong việc quân sự và nghiên cứu khí tượng.
Trong lịch sử, tại đền Vua Lê Đại Hành, chỉ có vua cùng hai con trai là Lê Long Đĩnh và công chúa Lê Thị Phất Ngân được thờ phụng. Một di tích khác tại cố đô Hoa Lư, phủ Đông Vương, cũng là nơi thờ người con trai thứ hai của Lê Đại Hành là Lê Long Tích, phối thờ cùng cháu trai Lý Long Bồ.
Khu di tích Động Thiên Tôn Ninh Bình
Khu di tích Động Thiên Tôn, tọa lạc tại thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Động Thiên Tôn là một trong những khu di tích lịch sử Ninh Bình độc đáo thuộc khu di tích cố đô Hoa Lư. Động nằm ở chân núi Voi, cách ngã ba Thiên Tôn trên Quốc lộ 1 khoảng 1 km. Động được biết đến như một khu di tích thờ thần Thiên Tôn, vị thần trong truyền thuyết của kinh đô Hoa Lư vào thế kỷ 10.
Truyền thuyết kể rằng, trước khi Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân dẹp loạn 12 sứ quân, ông đã tổ chức lễ tế trong động Thiên Tôn, hy vọng thu được sự giúp đỡ của thần. Sau này, khi Đinh Tiên Hoàng Đế lên ngôi, ông đã xây dựng nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài để đón tiếp các sứ thần nước ngoài trước khi nhập kinh đô.
Khu di tích động Thiên Tôn đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là khu di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1962.
Di tích lịch sử Đền Thánh Nguyễn Ninh Bình
Đền Thánh Nguyễn là một ngôi đền cổ, tọa lạc tại làng Điềm, phủ Tràng An, hiện thuộc hai xã Gia Thắng và Gia Tiến, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Đền là nơi thờ Nguyễn Minh Không, một danh nhân nổi tiếng đã cho xây dựng và thành lập chùa Viên Quang vào năm 1121. Sau khi ông qua đời, người dân nơi đây đã biến chùa Viên Quang thành đền thờ Thánh Nguyễn.
Kiến trúc của đền Thánh Nguyễn được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Đền được quay về hướng nam, song song với đền thờ Vua Đinh, tạo ra một di tích thuộc “Hoa Lư tứ trấn”. Công trình bao gồm 4 tòa tiền nhất, hậu công, với kiểu chồng rường và mái đại.
Các chi tiết kiến trúc như cột cờ, Vọng Lâu và gác chuông đều được chế tác tỉ mỉ và công phu bởi những nghệ nhân có tay nghề cao. Đặc biệt, cây đèn đá được cho là thắp sáng bởi Nguyễn Minh Không khi ngồi thiền tại đền đã trở thành biểu tượng của ông.
Với những giá trị lịch sử và văn hóa đó, mà vào tháng 2 năm 1989, khu di tích đền Thánh Nguyễn đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những khu di tích lịch sử Ninh nổi tiếng, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Kết luận
Qua bài viết trên, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về 11 khu di tích lịch sử Ninh Bình nổi tiếng, được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Hy vọng với những thông tin mình chia sẻ sẽ có thể giúp cho bạn hiểu rõ hơn về những giá trị lịch sử, văn hóa cũng như con người nơi đây. Hãy luôn theo dõi mình để đọc thêm nhiều bài viết hữu ích khác nhé.