Văn Hoá

Khám phá 14 khu di tích lịch sử An Giang được công nhận di tích quốc gia

4.1/5 - (16 bình chọn)

Khi nhắc đến An Giang, người ta không chỉ nghĩ đến những món đặc sản nổi tiếng, nao nức lòng người như bún cá An Giang, bò leo núi An Giang, thịt bò bảy món,… An Giang còn nổi tiếng với những di tích lịch sử nổi tiếng tồn tại hàng trăm năm. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá 14 khu di tích lịch sử An Giang nổi tiếng, được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngay.

Di tích Óc Eo – Ba Thê An Giang

Di tích Óc Eo Ba Thê An Giang
Khu di tích Óc Eo – Ba Thê An Giang

Di tích Óc Eo – Ba Thê là nơi lưu giữ những di tích quý giá của một nền văn minh cổ đại, tồn tại từ thế kỉ I đến thế kỉ VIII SCN. Công cuộc khai quật văn minh Óc Eo tại Ba Thê An Giang được bắt đầu vào năm 1944, khi nhà khảo cổ học Louis Malleret đã khai quật và phát hiện ra các dấu vết văn hóa tại khu vực này.

Ông tìm thấy những hải cảng và các di tích khảo cổ quan trọng ở gò Óc Eo thuộc Ba Thê. Nhà khảo cổ Louis Malleret nhận định rằng Ba Thê có thể là điểm bắt đầu của nền văn minh cổ đại này. Óc Eo trở thành tên gọi chung cho các di tích cổ xưa tại nhiều địa phương khác, vạch ra một hành trình hấp dẫn khám phá lịch sử và văn hóa cổ đại của khu vực.

Vào năm 2012, khu di tích Óc Eo – Ba Thê đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là một trong những di tích lịch sử quốc gia tại An Giang.

Di tích Thánh đường Mubarak

Di tích Thánh đường Mubarak
Di tích Thánh đường Mubarak

Thánh đường Mubarak có địa chỉ tại xã Phú Hiệp, An Giang. Thánh đường được xem là nơi thể hiện vẻ đẹp kiến trúc văn hóa Hồi giáo trong cộng đồng người Chăm. Thánh đường Mubarak được xây dựng vào năm 1750. Tuy nhiên, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, thánh đường đã được nhiều lần đưa vào cải tạo bằng các loại vật liệu khác nhau, từ cây lá đến bê tông cốt sắt,…

Di tích Thánh đường Mubarak được thiết kế bởi kiến trúc sư Mohamet Amin, ngôi thánh đường mang nét độc đáo của đạo Hồi. Kiến trúc bên ngoài thể hiện sự tương đồng với các công trình cổ ở Ấn Độ và Ba Tư, với cổng chính hình vòng cung và tháp lớn hai tầng trên nóc, tượng trưng cho đạo Hồi.

Bên trong thánh đường không có tượng thờ, thay vào đó là hậu tẩm và Minbar để thực hiện lễ cúng và giảng giải. Trang trí bên trong với màu trắng và xanh cùng những chùm đèn trên trần tạo không gian trang nghiêm và trang trọng. Mỗi năm, có ba kỳ lễ lớn được tổ chức tại thánh đường, đánh dấu các sự kiện quan trọng trong lịch sử và văn hóa của đạo Hồi và người Chăm.

Di tích Thánh đường Mubarak đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử An Giang được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 12/12/1986.

Di tích núi Sam An Giang

Di tích núi Sam An Giang
Khu di tích núi Sam An Giang

Khu di tích núi Sam là một ngọn núi nổi tiếng với độ cao 284m và chu vi lên đến 5200m, nằm tại xã Vĩnh Tế, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.

Di tích núi Sam đã không ít lần được thay bằng nhiều tên gọi khác nhau. Tương truyền rằng, vào năm 1819–1824 dưới thời vua Minh Mạng đã lệnh cho Thoại Ngọc Hầu xây dựng tại nơi đây một con kênh tên là kênh Vĩnh Tế. Bên cạnh con kênh có một ngọn núi sở hữu phong cảnh tuyệt đẹp. Vì vậy mà vua Minh Mạng đã ban tên cho ngọn núi này là Vĩnh Tế Sơn.

Ngoài ra, theo người dân nơi đây kể lại rằng, ngọn núi cho hình dạng đặc biệt giống hình của một con sam nếu nhìn theo hướng Tịnh Biên. Do đó mà nơi đây đã được người dân đặt cho cái tên là Ngọc Lãnh Sơn.

Bên cạnh những câu chuyện thú vị, núi Sam còn sở hữu nhiều ngôi chùa tâm linh nổi tiếng như iếu Bà chúa Xứ, Chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu và Chùa Phước Điền  hay còn được biết đến là Chùa Hang,… Núi Sam còn là nơi thờ cúng anh hùng Trương Gia Mô, một nhà triết học, nho sĩ của phong trào Duy Tân, người đã chấm dứt cuộc đời bế tắc của mình tại đây vào năm 1929.

Di tích núi Sam còn có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng. Từ đỉnh núi, quân đội ta có thể quan sát và quản lý biên giới từ thành phố Châu Đốc đến tuyến Tịnh Biên, tạo ra một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Đồng thời, tuyến quốc lộ 91 dọc theo chân núi cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giao thông và phát triển kinh tế của vùng lân cận.

Vào ngày 10/07/1980, di tích Núi Sam đã được nhà nước ta công nhận là khu di tích lịch sử cấp quốc gia.

Khu chứng tích vụ thảm sát Ba Chúc của quân đội Pôn Pốt

Vụ thảm sát Ba Chúc
Khu chứng tích vụ thảm sát Ba Chúc của quân đội Pôn Pốt

Vụ thảm sát Ba Chúc là một trong những bi kịch kinh hoàng do chính quyền Khmer Đỏ gây ra tại thị trấn Ba Chúc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Từ ngày 30/4/1977, quân Khmer Đỏ đã khởi đầu cuộc tấn công bạo lực tại biên giới Tây Nam – Việt Nam. Khoảng một năm sau, vào ngày 18/4/1978, quân Khmer Đỏ đã xâm nhập Ba Chúc và thực hiện một loạt các hành động tàn bạo, giết hại vô số dân thường vô tội.

Trong khoảng 12 ngày chiếm đóng, từ ngày 18 đến 30/4/1978, quân Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát, lấy đi sinh mạng của 3.157 người dân vô tội. Chỉ có ba người sống sót sau cơn ác mộng này. Vụ thảm sát này đã làm gia tăng căng thẳng biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, dẫn đến Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam Việt Nam hay còn được gọi là Chiến tranh biên giới Tây Nam.

Vào năm 1979, sau khi chống lại quân đội Khmer Đỏ, chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang đã cùng nhau xây dựng quần thể chứng tích là lên án tội ác của quân đội Pôn Pốt. Qua đó tưởng niệm sự hy sinh của hơn 1160 nạn nhân trong vụ thảm sát này.

Vào ngày 10/7/1980, khu chứng tích vụ thảm sát Ba Chúc của quân đội Pôn Pốt đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử An Giang nổi tiếng, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.  

Di tích lịch sử Gò Tháp An Lợi

Di tích lịch sử Gò Tháp An Lợi
Di tích lịch sử An Giang – Gò Tháp An Lợi

Di tích khảo cổ gò tháp An Lợi nằm tại xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Nơi đây là một công trình kiến trúc tôn giáo tồn tại từ thời kỳ hậu văn hóa Óc Eo.

Di tích gò tháp An Lợi được phát hiện từ năm 1999, nơi này mang dấu ấn rõ ràng của văn hóa Phù Nam cổ, một phần quan trọng của nền văn minh Óc Eo. Điểm đáng chú ý là gò tháp có dạng hình chữ nhật, rộng hơn 300m2, với mặt gò lộ nhiều viên gạch và đá, kết hợp theo phong cách truyền thống của người Óc Eo – Phù Nam xưa.

Theo nhiều công bố nghiên cứu khảo cổ từ năm 2002 và các cuộc khai quật năm 2004 đã phát hiện nhiều di vật giá trị như mảnh vỡ đá Linga và Somasutra, bàn đá và gốm cổ. Kiến trúc của gò tháp An Lợi cho đến nay vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, với vách tường tháp cao từ 1,5 – 2,5m, phản ánh sự tôn kính và phục vụ của cư dân cổ đối với tín ngưỡng Siva.

Những nghiên cứu này đã tạo ra nhiều khía cạnh mới về di tích này và mối liên kết của nó với nền văn hóa Óc Eo. Gò tháp An Lợi là một phần không thể thiếu trong việc hiểu về lịch sử và văn hóa của vùng đất An Giang, đồng thời góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hóa Việt Nam.

Xem thêm:  Khám phá TOP 7 khu di tích lịch sử ở Hà Nội nổi tiếng bạn nhất định không nên bỏ qua

Với những giá trị lịch sử và văn hóa đó mà vào ngày 26/02/2008, Di tích khảo cổ gò tháp An Lợi An Giang đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Di tích Đình Vĩnh Ngươn An Giang

Đình Vĩnh Ngươn An Giang
Di tích lịch sử Đình Vĩnh Ngươn An Giang

Đình Vĩnh Ngươn, hay còn gọi là Trung Hưng Thần Miếu, nằm tại khu vực đầu nguồn của kênh Vĩnh Tế, tại phường Vĩnh Ngươn, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Ban đầu, đình được xây từ tre lá đơn sơ nhằm thờ Nguyễn Hữu Lễ, một người dân địa phương không rõ thân thế, nhưng vì đã có công lao lớn trong việc cứu chúa Nguyễn Phúc Ánh và đoàn tùy tùng trước quân Tây Sơn.

Vị Thần hoàng Nguyễn Hữu Lễ được vua Gia Long tôn vinh và sắc phong, đặt tên cho đình là Trung Hưng Thần Miếu. Năm 1929, vì nguy cơ ngập lụt tại địa điểm cũ, Đốc phủ Trương Tấn Vị cùng Ban quý tế đã di dời và tu sửa ngôi đình tới địa điểm mới.

Ngôi đình được xây dựng kiểu ba gian, hai chái, với các công trình như Đại điện, võ quy, võ ca, nhà khói… Các chi tiết trang trí nổi bật với hoạ văn, tranh vẽ hình rồng, và câu đối chữ đen trên nền đỏ.

Chính điện của đình là điểm trọng yếu, với kiến trúc cổ lầu tam cấp, với các đường nét hoa văn tinh xảo được thợ xưa khắc chạm. Đây cũng là nơi chứa bàn thờ Thần hoàng Nguyễn Hữu Lễ và các vật thể quý giá khác như bài vị, hòm sắc, lá sắc… Đình Vĩnh Nguơn còn lưu giữ nhiều cổ vật quý như đôi liễn gỗ, hoành phi gỗ, bộ lư đồng, tranh sơn thủy và phù điêu.

Mỗi 3 năm, đình tổ chức nghênh sắc một lần, cùng với các ngày lễ chính hàng năm như Lễ cúng thần hội cuối năm, Lễ cúng tống khách đầu năm và Lễ cúng Thần hoàng Nguyễn Hữu Lễ (lễ giỗ chính),… đều được tổ chức tại đây.

Nhờ những giá trị văn hóa được lưu giữ cho đến tận ngày nay mà di tích Đình Vĩnh Nguơn đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia.

Khu di Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành

Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành
Khu di Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành An Giang

Di tích đền quản cơ Trần Văn Thành hay còn được gọi là Bửu Hương tự, được xây dựng từ năm 1903 để tưởng nhớ cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nơi vợ và con trai trưởng của người lãnh đạo, Trần Văn Thành. Trước đây, Trần Văn Nhu, con trai của Trần Văn Thành đã có công lớn trong cuộc khởi nghĩa nhưng sau đó đã chuyển hướng sang hoạt động kinh doanh và xã hội.

Đền quản cơ đã nhiều lần bị Pháp tấn công và đốt cháy vào năm 1913 cùng với việc bắt giữ nhiều người. Trần Văn Nhu vì bị truy nã nặng, đã phải lẩn trốn và qua đời tại Trà Bang. Di cốt của ông được cải táng gần đền thờ Quản Cơ Trần Văn Thành.

Sau những vụ tấn công và phá hủy của thực dân Pháp, vào năm 1938, một người đệ tử của Trần Văn Nhu đã cho khởi động xây dựng lại đền. Tuy nhiên vào năm 1948, đền lại bị đốt phá một lần nữa. Cuối cùng, nhờ sự đóng góp của nhân dân nơi đây mà vào năm 1952, đền quản công đã được xây dựng lại một lần nữa và tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Kiến trúc của đền là dạng “tam” với mái hai cấp lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, tường gạch và nền lát gạch bông. Nội thất đền được trang trí tinh xảo với các hương án, hoành phi, liễn đối được chạm khắc công phu và sơn son thiếp vàng. Lễ kỷ niệm Quản Cơ Thành và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa được diễn ra hàng năm vào các ngày 20, 21 và 22 tháng 2 âm lịch.

Vào ngày 12/12/1986, di tích lịch sử đền quản cơ Trần Văn Thành An Giang đã được nhà nước ta xếp hạng là một di tích lịch sử cấp quốc gia, nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa và lịch sử đang được lưu giữ tại nơi đây.

Di tích lịch sử Cột Dây Thép

Di tích lịch sử Cột Dây Thép
Di tích lịch sử cột Dây thép Long Điền A

Di tích lịch sử cột Dây thép Long Điền A được xây dựng cuối thế kỷ 19 bởi quân đội Pháp, nằm gần sông Tiền ở An Giang. Cột dây thép được tạo từ bốn cột thép kết nối thành tháp cao 30m, đây từng là một phần của hệ thống thông tin liên lạc, với hai cột đối xứng bên bờ sông.

Trong lịch sử vào những năm 1930, việc treo lá cờ Đảng đầu tiên tại đỉnh Cột Dây thép Long Điền A đã làm bùng nổ sự phấn khởi dân chúng và khiến quân địch dè chừng.

Nơi đây cũng đã từng trở thành biểu tượng của phong trào cách mạng ở An Giang, tập trung của những cuộc biểu tình và đấu tranh cho tự do dân tộc. Cột Dây thép Long Điền A trở thành một kỷ vật lịch sử quan trọng đậm chất cách mạng của dân tộc ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Vào ngày 09/01/1990, Di tích lịch sử cột Dây thép Long Điền A đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử An Giang, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, nhằm tôn vinh những đóng góp to lớn đối với lịch sử dân tộc được lưu giữ tại nơi đây.

Di tích Chùa Ông Bắc An Giang

Di tích Chùa Ông Bắc An Giang
Di tích lịch sử An Giang – Chùa Ông Bắc

Chùa Ông Bắc, hay còn gọi là Quảng Đông tỉnh hội quán, được xây dựng vào thế kỷ 19, mang kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của người Hoa Quảng Đông tại thành phố Long Xuyên, An Giang. Chùa ban đầu chỉ đơn giản là nơi sinh hoạt và họp mặt cho người Hoa gốc Quảng Đông. Nhưng qua sự vận động và đóng góp của những người giàu có trong cộng đồng người Hoa, chùa đã được sửa sang lần thứ hai vào năm 1887 và hoàn thiện vào năm 1891, trở thành một công trình kiến trúc đồ sộ.

Với diện tích 400m², chùa theo kiến trúc chữ Quốc (), mang đậm dấu ấn nghệ thuật của người Hoa và văn hóa kiến trúc nhà Nguyễn – Trung Quốc. Mái ngói lợp đại ống tráng men xanh, các hình khắc bát tiên, rồng, phượng trên mái nóc, và những bức phù điêu, hoa văn cổ điển tạo nên một vẻ đẹp tinh tế và độc đáo.

Một số kiến trúc độc đáo có tại nơi đây như cột gỗ căm xe, tường gạch hồ vôi, và nền lát gạch hoa đẹp mắt,… Bên trong, cấu trúc nội thất tinh tế với những bức chạm trổ đẹp, hình ảnh tam cấp tượng trưng cho Thiên, Địa, Nhân, cùng ba khánh, một tủ thờ sơn son thiếp vàng và nhiều đồ đồng khác.

Chùa thờ Bắc Đế là được xem là trung tâm của khu di tích chùa Ông Bắc, bởi nơi đây là nơi dùng để thờ tự Thiên Hậu, Quan Công và nhiều vị thần khác. Đây không chỉ là một di tích lịch sử thông thường, mà còn là nơi tôn vinh văn hóa của người Hoa đã hòa nhập sâu rộng vào văn hóa Việt Nam.

Nhờ những đóng góp to lớn vào nét đẹp văn hóa, mà vào ngày 15/6/1987, di tích chùa Ông Bắc đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử An Giang được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Di tích lịch sử chùa Hòa Thạnh

chùa Hòa Thạnh
Di tích lịch sử chùa Hòa Thạnh An Giang

Di tích chùa Hòa Thạnh hay còn được biết đến với tên gọi chùa Cây Mít, nằm tại xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1847, với vật liệu chủ yếu là thân cây mít.

Vào năm 1913, do sơ suất mà chùa đã xảy ra hỏa hoạn. Tuy nhiên may mắn là chùa đã không tổn thất quá nhiều, các pho tượng cổ vẫn còn được gìn giữ một cách nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Sau khi chùa xảy ra hỏa hoạn, nhiều thật tử cùng người dân nơi đây đã cùng nhau góp công xây dựng lại chùa được khang trang hơn.

Chùa Hòa Thạnh có kiến trúc Phật giáo, với diện tích 11,5m x 40m, cao khoảng 15m, với hai mái chính trước và sau, cùng với những bảo tồn pho tượng gỗ quý tuyệt đẹp. Sự hài hòa của không gian xanh cùng các công trình kiến trúc đã khiến nơi đây trở thành điểm đến không thể bỏ lỡ của những tín đồ phật giáo và và những người yêu thích nghệ thuật kiến trúc.

Di tích chùa Hòa Thạnh còn là nơi kỷ niệm việc cụ Nguyễn Sinh Sắc, cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đến thăm chùa từ năm 1921 – 1923. Mỗi năm, ngày 12 và 13 tháng 8 âm lịch, nhiều Phật tử đổ về đây để lễ bái và cầu nguyện.

Xem thêm:  Top 13 khu di tích lịch sử Vũng Tàu được công nhận di tích cấp quốc gia

Di tích chùa Hòa Thạnh đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 04/08/1992.

Di tích chùa Giồng Thành

Di tích chùa Giồng Thành
Di tích lịch sử An Giang – chùa Giồng Thành

Chùa Giồng Thành, hay còn gọi là Long Hưng Tự, có địa chỉ tại phường Long Sơn, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Chùa được xây dựng trên một khu đất rộng, gần sông Cái Vừng, cách thị xã Tân Châu khoảng 3km.

Chùa được xây dựng lần đầu vào năm 1833 sau khi vị vua Minh Mạng ra lệnh thay đổi địa điểm xây thành trì từ Châu Đốc sang Long Sơn do địa thế thuận lợi hơn. Tuy nhiên, công trình xây dựng tại Long Sơn bị bỏ dở. Vào năm 1875, Hòa thượng Trí Trang xây dựng một ngôi chùa nhỏ bằng tre lá trên mảnh đất của công trình bị bỏ dang trước đó. Từ đó mà chùa có tên gọi là chùa Giồng Thành.

Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hườn nhận thấy chùa trở nên chật chội và cũ kỹ nên đã xin phép với chính quyền Pháp để quyên góp tiền xây dựng lại ngôi chùa. Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như thực hiện lần trùng tu lớn nhất, chuyển đổi kiến trúc theo phong cách Ấn Độ.

Chùa Giồng Thành được cất theo chữ “Song Hỷ” với kiến trúc gồm 3 gian: chánh điện, nhà giảng và nhà hậu tổ. Chánh điện thờ Phật Thích-ca Mâu-ni, Nam Tào, Bắc Đẩu. Mặt gió của chùa cất theo kiểu Ấn Độ, có tháp hai tầng hình phễu úp ngược.

Bên cạnh là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, di tích chùa Giồng Thành còn gắn liền với những dấu ấn lịch sử, khi chùa đã từng là nơi ẩn náu của nhiều chiến sĩ cách mạng và là nơi tổ chức các hoạt động chính trị, chống lại thực dân Pháp.

Nhờ những công lao to lớn mà vào ngày  12/12/1986, di tích chùa Giồng Thành đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia.

Di tích chùa Bà Lê An Giang

Di tích chùa Bà Lê An Giang
Di tích chùa Bà Lê An Giang

Chùa Phước Hội, hay chùa Bà Lê, nằm sâu trong rạch Cái Tàu Thượng, cách trung tâm Hội An, tỉnh An Giang khoảng 1km. Điểm đặc biệt của ngôi chùa này không chỉ là vẻ đơn giản, mộc mạc, và uy nghiêm nơi cửa phật, mà còn là căn cứ cách mạng của quân đội giải phóng miền nam Việt Nam.

Chùa Bà Lê được xây dựng trên đất của nhà bà Lê, một người Việt gốc Hoa vào cuối năm 1897. Bà Lê, có tên là Diệu Tâm, người gốc Triều Châu, sinh năm 1840, đã sáng lập chùa Phước Hội. Tại đây, bà thường mua chim, cá, rùa từ chợ Cái Tàu để phóng sinh vào các ngày rằm.

Sau khi bà mất, con nuôi là ông Võ Châu đã xây mộ tháp gần chùa để an táng bà. Từ đó mà người đời gọi chùa này là chùa Bà Lê. Vào năm 1922, hoà thượng Thích Quảng Đạt đã kêu gọi nhân dân đóng góp tu sửa và cải tạo chùa và đặt tên chùa là Phước Hội Tự.

Ngoài việc thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc, chùa còn thờ các vị như Ngọc Hoàng đại đế, Nam Tào, Bắc Đẩu… Chùa có khuôn viên rộng lớn, với nhiều loại hoa kiểng và cây xanh cổ thụ, tạo nên không khí thanh tịnh và dễ chịu.

Ngoài những giá trị văn hóa, chùa bà Lê còn là nơi lưu giữ những dấu ấn lịch sử quan trọng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Phước Hội là trở thành cơ sở cách mạng của quân đội giải phóng. Hoà thượng Thích Quảng Đạt đã có công lớn trong việc tiếp tế, nuôi chứa cán bộ cách mạng và tổ chức nhiều hoạt động chính trị.

Di tích chùa Bà Lê đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử An Giang được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 12/12/1986.

Di tích lịch sử căn cứ Ô Tà Sóc An Giang

căn cứ Ô Tà Sóc An Giang
Di tích lịch sử An Giang – căn cứ Ô Tà Sóc

Di tích lịch sử căn cứ Ô Tà Sóc nằm trên ngọn núi Dài ở vùng Bảy Núi, An Giang. Căn cứ là nằm trên một ngọn núi hiểm trở với suối chảy quanh năm cùng nhiều hang động được tạo nên từ những tảng đá khổng lồ. Tại đây, những câu chuyện lịch sử cách mạng được viết nên trong những ngày kháng chiến chống thực dân Mỹ.

Căn cứ Ô Tà Sóc đã trở thành tuyến phòng thủ vững chắc cho quân đội giải phóng miền nam Việt Nam từ năm 1962. Với địa hình núi rừng hiểm trở đã giúp Tỉnh ủy An Giang phối hợp xây dựng hàng rào bảo vệ vững chắc. Đặc biệt, nơi đây cũng chính là nơi Mỹ thử nghiệm vũ khí mới.

Vào năm 1962, quân đội Mỹ – Ngụy đã tiến hành kế hoạch “tát nước bắt cá” nhằm tiêu diệt “cộng sản”. Họ đã tấn công hàng trăm cuộc, dùng máy bay, pháo, bom, nhưng căn cứ Ô Tà Sóc đã dũng cảm chống trả và giành thắng lợi trước các đợt tấn công của quân địch.

Nhờ có lợi thế về địa hình mà chiến sĩ ta đã tận dụng triệt để để đối phó với địch. Các trận chiến khốc liệt diễn ra từ hốc đá đến điểm cao, khiến địch phải bất lực mà rút lui. Các trận địa chông mìn, lựu đạn đã tạo ra bãi chết, khiến địch không thể tiến gần căn cứ ta.  

Nhờ những đóng góp to lớn đó mà vào ngày 28/12/2001, di tích lịch sử An Giang – Căn cứ Ô Tà Sóc đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Di tích lịch sử lăng mộ Thoại Ngọc Hầu An Giang

lăng mộ Thoại Ngọc Hầu An Giang
Di tích lịch sử lăng mộ Thoại Ngọc Hầu An Giang

Lăng Thoại Ngọc Hầu, hay còn được gọi là Sơn Lăng, có địa chỉ tại phường Núi Sam, Châu Đốc, An Giang. Lăng được xem là một công trình kiến trúc cổ độc đáo và biểu tượng trong lịch sử phong kiến. Nơi đây chính là nơi an nghỉ của Thoại Ngọc Hầu (tên thật Nguyễn Văn Thoại), một nhân vật quan trọng trong lịch sử vùng đất An Giang.

Không rõ Sơn Lăng được xây dựng vào thời điểm nào, tuy nhiên theo ghi nhận những sự kiện quan trọng, các nhà khảo cổ đã dự đoán rằng lăng được xây dựng vào khoảng trước năm 1829. Theo sử sách cho rằng, Thoại Ngọc Hầu đã an táng vợ thứ nhất là bà Trương Thị Miệt (mất năm 1821). Sau đó, vào năm 1826, vợ chính thất của ông là bà Châu Thị Tế cũng qua đời và được an táng tại đây. Có thể nói Sơn Lăng được ông xây dựng trước khi ông qua đời vào năm 1829.

Lăng Thoại Ngọc Hầu là một khối kiến trúc uy nghi, nằm bên chân núi Sam và kề bên quốc lộ 91 ngày nay. Để đến lăng, người ta phải đi qua chín bậc đá ong dài trên trăm mét. Sân lăng rộng lớn, có hai tiểu đình chứa bia Thoại Sơn và tượng ngựa cùng lính hầu.

Bốn tấm bia đá được gắn vào tường thành với nhiều ký tự Hán, trong đó có bia Vĩnh Tế Sơn, có thể được dựng từ năm 1828. Đền thờ Thoại Ngọc Hầu nằm lưng tựa vào núi Sam và là nơi trang nghiêm, có tượng bán thân của ông với trang phục lễ bộ.

Nơi này cũng là nghĩa trủng, chôn cất những người đã hy sinh trong quá trình xây kênh Vĩnh Tế. Có hơn 50 ngôi mộ xây bằng hồ ô dước, đa số không tên tuổi, là những người đã hy sinh khi xây kênh Vĩnh Tế và được ông Thoại quý tập về.

Năm 2010, trong quá trình tu bổ lăng Thoại Ngọc Hầu, phát hiện một khu vực chôn đồ tùy táng với 523 hiện vật và hàng trăm vật dụng khác. Những phát hiện này là những đóng góp vô cùng quý giá, giúp cho các nhà khảo cổ học có thể hiểu rõ hơn về lịch sử cũng như những nét đẹp văn hóa của những nền văn minh ngày xưa đã từng tồn tại trên mảnh đất này.

Di tích lăng Thoại Ngọc Hầu đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia.

Kết luận

Qua bài viết trên, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu và khám phá chi tiết 14 khu di tích lịch sử An Giang nổi tiếng, được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Hy vọng với những gì mình chia sẻ đã có thể giúp cho bạn hiểu rõ hơn về những lịch sử cùng như những nét đẹp văn hóa và con người nơi đây. Hãy luôn theo dõi mình để đọc thêm nhiều bài viết hữu ích khác nhé.