Bà Rịa Vũng Tàu không chỉ sở hữu những bãi biển với vẻ đẹp thơ mộng, hay những món ăn đặc sản như hải sản, bánh khọt, bún tôm tích,… Vũng tàu sở hữu những di tích lịch sử nổi tiếng, có lịch sử tồn tại hàng trăm năm. Bà Rịa Vũng Tàu hiện nay đang sở hữu 48 di tích lịch sử, trong đó có 28 di tích lịch sử cấp quốc gia, 1 di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và 19 di lịch sử cấp tỉnh.
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu chi tiết top 13 di tích lịch sử Vũng Tàu nổi tiếng, được công nhận di tích cấp quốc gia qua bài viết này. Cùng mình bắt đầu ngay thôi nào!
Nội dung
Khu di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo
Nhà tù Côn Đảo, được nhiều người biết đến với biệt danh “địa ngục trần gian”, là một trong những hệ thống nhà giam tàn bạo nhất thế giới được xây dựng tại Việt Nam vào thời của thực dân Pháp, tại đảo Côn Lôn, huyện Côn Đảo, thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Trong suốt những giai đoạn lịch sử, di tích nhà tù Côn Đảo đã từng chứng kiến sự giam giữ và các cuộc tra tấn dã man của các cai ngục đối với hàng ngàn tù nhân chính trị, những chiến sĩ cách mạng, và những người yêu nước chiến đấu chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Hệ thống nhà tù Côn Đảo được xây dựng trên mảnh đất rộng khoảng 52 km vuông với 11 khu giam giữ, bao gồm Trại giam Phú Hải, Trại giam Phú Sơn, Trại Phú Thọ, Trại Phú Tường, Chuồng cọp, chuồng trại, Trại Phú An, Trại Phú Bình, Trại Phú Hưng và Trại giam số 9 đang trong quá trình hoàn thiện. Trải qua hai giai đoạn của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hệ thống Nhà tù Côn Đảo sở hữu 127 phòng giam, 42 phường và 504 “chuồng cọp”.
Trong số hàng trăm phòng giam tại nhà tù Côn Đảo, Chuồng Cọp được xem là nơi đặc biệt kinh khủng nhất. Vào năm 1340, Pháp đã cho tiến hành xây dựng 120 chuồng cọp, được chia làm 2 khu, mỗi khu 60 chuồng. Đến năm 1371, đế quốc Mỹ cho xây dựng thêm 384 chuồng cọp khác, được chia làm 4 khu, mỗi khu có 2 dãy, mỗi dãy có 48 phòng.
Những chuồng cọp này được các cai ngục sử dụng để hành hạ các tù nhân bằng những biện pháp vô cùng dã man như ném vôi bột, dội nước bẩn, phơi nắng phơi mưa tù nhân,…. Mỗi năm, hàng ngàn du khách đã đến thăm khu di tích lịch sử này để có thể tận mắt chứng kiến những cuộc tra tấn và hành hạ dã man của quân xâm lược với đồng bào ta.
Nhà tù Côn Đảo không chỉ là một di tích lịch sử đặc biệt của Việt Nam mà còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách trên khắp nơi trên thế giới. Di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo được xem là một minh chứng sống động cho sự tàn ác và nhục nhã của chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với những hình thức tra tấn và đày ải dã man.
Với những dấu ấn lịch sử quan trọng, khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được thủ tướng chính phủ công nhận và xếp hạng là một trong 23 di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vào ngày 10 tháng 5 năm 2012.
Di tích lịch sử Bạch Dinh
Khu di tích lịch sử Bạch Dinh được xem là một trong những biểu tượng độc đáo của kiến trúc châu Âu cuối thế kỷ 13 tại Việt Nam.
Vào thời vua Minh Mạng, ông đã cho xây dựng pháo đài Bạch Dinh nhằm kiểm soát cửa biển Cần Giờ. Tuy nhiên, vào thời điểm Pháp xâm lược miền nam, thực dân Pháp đã phá hủy toàn bộ nơi này và xây dựng nơi đây như một dinh thự sang trọng để cho các nhân vật cấp cao như các vị Toàn quyền Đông Dương, Hoàng đế Bảo Đại, hay các Tổng thống của Việt Nam Cộng hòa nghỉ ngơi.
Từ năm 1307 đến 1316, khu Bạch Dinh đã trở thành nơi giam lỏng cho cựu hoàng Thành Thái. Sau khi vua Thành Thái bị đưa đi lưu đày, nơi đây được nhượng lại để làm nơi nghỉ mát cho Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương từ năm 1334.
Đến sau năm 1375, khu Bạch Dinh đã được chuyển đổi thành điểm du lịch, sau một thời gian không được sử dụng vào mục đích cụ thể. Từ đó, khu Bạch Dinh đã trở thành di tích lịch sử quan trọng và là một điểm đến du lịch nổi tiếng tại Vũng Tàu.
Khu di tích lịch sử Bạch Dinh được xây dựng trên dốc núi Lớn tại Vũng Tàu. Vị trí của khu di tích cao hơn khoảng 27m so với mực nước biển, và được bao quanh bởi một khu rừng nhỏ với nhiều loại cây khác nhau, đặc biệt là cây sứ.
Bạch Dinh cao khoảng 13m, có ba tầng: tầng hầm dùng cho việc nấu nướng, tầng trệt làm khánh tiết và tầng lầu dành cho việc nghỉ ngơi. Có hai lối vào khu di tích Bạch Dinh: một đường uốn quanh chạy dưới rừng cây, và một đường bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, giữa hai hàng cây sứ. Nơi đây hiện đang được sử dụng làm nhà bảo tàng, và trưng bày nhiều hiện vật lịch sử có giá trị.
Với những giá trị lịch sử quan trọng vẫn còn được lưu giữ cho đến tận ngày nay, khu di tích lịch sử Bạch Dinh đã được nhà nước công nhận và xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Vũng Tàu được công nhận cấp quốc gia vào ngày 4 tháng 8 năm 1392.
Khu di tích trận địa Pháo cổ và Hầm thủy lôi Núi Lớn
Hầm thủy lôi nằm ở trên Núi Lớn thuộc tỉnh Vũng Tàu được xây dựng bởi quân phát xít Nhật vào năm 1344, nhằm làm kho chứa vũ khí đánh thủy. Tuy nhiên, với tinh thần chiến đấu quyết liệt, quân dân ta đã nhiều lần đột nhập vào hầm để lấy cắp vũ khí của địch nhằm phục vụ cho mục đích chiến đấu của quân đội ta.
Trong giai đoạn chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản đã chiếm Vũng Tàu và xây dựng nhiều hầm ngầm, trong đó có hầm thủy lôi trên Núi Lớn. Dù chỉ là một kho chứa vũ khí nhỏ, nhưng kiến trúc của hầm thủy lôi được quân đội Nhật Bản xây dựng vô cùng công phu và kỹ lưỡng.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, quân đồng minh đã cho gỡ bỏ vũ khí dưới biển và chôn vào hầm thủy lôi. Sự thất bại của quân đội Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Minh, cùng quân dân Vũng Tàu lật lại thế cờ và chiếm giữ khu hầm thủy lôi này.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Nhật Bản, các trận đột kích vào hầm thủy lôi Núi Lớn là những chiến công ấn tượng nhất của quân dân Vũng Tàu.
Để ghi ơn công lao to lớn của quân dân Vũng Tàu, vào ngày 4 tháng 8 năm 1392, nhà nước ta đã công nhận xếp hạng Khu di tích trận địa Pháo cổ và Hầm thủy lôi Núi Lớn là một trong những di tích lịch sử quốc gia.
Di tích lịch sử cách mạng nhà 42/11 (nhà má Tám Nhung)
Ngôi nhà của bà Hồ Thị Khuyên, hay còn được biết đến với cái tên là má Tám Nhung, ngày trước có địa chỉ tại số nhà cũ là 42/11 đường Trần Phú, hiện nay là số 1 Trần Xuân Độ, thuộc thành phố Vũng Tàu. Trong những ngày cuối cùng của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1345, nơi này trở thành điểm họp mặt của Ủy ban mặt trận Việt Minh, và là nơi ẩn trốn của các cán bộ cách mạng Việt Minh.
Bà Hồ Thị Khuyên sinh năm 1305 tại Bà Rịa Vũng Tàu, bà được mọi người trong xóm gọi với cái tên thân mật là má Tám Nhung. Bà cùng chồng bà là ông Nguyễn Văn Nhung, đều là những người yêu nước, luôn căm ghét thực dân Pháp và các bọn địa chủ ác độc. Sớm nhận thức được ý thức cách mạng, 2 vợ chồng đã dấn thân vào cách mạng nhằm chiến đấu nhằm giành lại độc lập và tự do cho dân tộc.
Sau khi cuộc khởi nghĩa tại Vườn Trầu thất bại, 2 vợ chồng đã dấn thân vào cuộc kháng chiến Nam Kỳ. Lúc này, ngôi nhà của họ trở thành nơi tập trung các hoạt động cách mạng của các cán bộ Việt Minh. Để thuận tiện cho việc họp bàn các kế hoạch tác chiến của các cán bộ, má Tám Nhung đã xây dựng một căn hầm bí mật chính dưới ngôi nhà của mình, nhằm cung cấp nơi trú ẩn an toàn cho các cán bộ cách mạng.
Căn hầm được xây dựng vào năm 1367, và được giấu kín bằng cách làm như một bể chứa nước. Bà Hồ Thị Khuyên và ông Nguyễn Văn Nhung đã thông qua nhiều biện pháp ngụy trang thông minh để tránh sự kiểm tra của kẻ thù. Thậm chí, khi quân địch đến lục soát nhà, 2 vợ chồng còn dùng mùi cá để làm đánh lừa kẻ thù.
Ngôi nhà của má Tám Nhung không chỉ là nơi trú ẩn an toàn, mà còn là điểm hội ngộ và họp bàn các kế hoạch tác chiến của các cán bộ cách mạng. Với ý nghĩ lịch sử đó, mà vào ngày 14 tháng 12 năm 1389, Di tích lịch sử cách mạng nhà 42/11 đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Vũng Tàu được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Di tích trụ sở Ủy ban Việt Minh Vũng Tàu
Khu di tích trụ sở Ủy ban Việt Minh Vũng Tàu tọa lạc tại số 1, đường Ba Cu, thuộc thành phố Vũng Tàu. Xây dựng từ năm 1308-1313, trụ sở Ủy ban Việt Minh mang kiến trúc Pháp thuộc với kích thước rộng lớn và nằm gần biển Bãi Trước. Trong giai đoạn kháng chiến chống , nơi đây là một trong những địa điểm quan trọng đối với các hoạt động cách mạng. Nơi đây đã từng nằm dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng như Nguyễn Xuân Nhật, Hồ Sĩ Nam và Nguyễn Bảo.
Trong các cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống thực dân Pháp, đỉnh điểm là vào thời điểm cách mạng tháng 8 năm 1345, Ủy ban Việt Minh tại Vũng Tàu đã nhanh chóng tổ chức và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa. Đồng thời kêu gọi nhân dân Vũng Tàu tham gia và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và giành lại chính quyền địa phương.
Sau khi chiến tranh kết thúc, nhà truyền thống cách mạng đã trở thành một điểm du lịch lịch sử của thành phố Vũng Tàu. Nơi đây đã được bổ sung và cải tạo nhằm bảo tồn các di sản lịch sử quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Vũng Tàu.
Với những ý nghĩa lịch sử quan trọng đó, mà vào ngày 25 tháng 3 năm 1391, Di tích trụ sở Ủy ban Việt Minh Vũng Tàu đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Vũng Tàu được công nhận là di tích cấp quốc gia.
Di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” số 18 Lê Lợi
Khu di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” số 18 tọa lạc tại địa chỉ số 18, đường Lê Lợi, thuộc thành phố Bà Rịa Vũng Tàu. Nơi đây đã từng diễn ra nhiều cuộc họp bí mật của Tỉnh ủy Bà Rịa – Long Khánh trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
Với diện tích rộng 160m2, “Nhà cao cẳng” số 18 Lê Lợi không chỉ là một nơi họp mặt của các chiến sĩ cách mạng; nơi đây còn được xem là một biểu tượng kiến trúc độc đáo với hàng cột đá vững chãi ở dưới nhà, mang lại đậm dấu ấn lịch sử nơi đây.
Khu di tích “Nhà cao cẳng” được đưa vào xây dựng từ năm 1349 bởi ông Deloudet, người Pháp. Sau khi hoàn thành xây dựng, ngôi nhà được chuyển giao cho bà Chau Chon. Tuy nhiên, ngôi nhà sau đó đã được bán cho ông Nguyễn Văn Chiến. Đến năm 1352, “Nhà cao cẳng” lại được phân công cho ông Ba Trà, một người nhiệt tình với phong trào cách mạng Việt Nam trông giữ. Lúc này, ngôi nhà đã trở thành trung tâm hoạt động của những chiến sĩ yêu nước và chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.
Với vai trò là nơi gặp gỡ, thảo luận và đưa ra các quyết định cách mạng, “Nhà cao cẳng” đã chứng kiến những giai đoạn thăng trầm của lịch sử Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Ngày nay, mặc dù nơi đây không còn là trung tâm cách mạng, nhưng di tích “Nhà cao cẳng” vẫn tồn tại như một biểu tượng của sự kiên định và hy sinh của những người anh hùng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lược. Hiện nay, di tích này đang nằm dưới sự quản lý của Cục Hải quan TP.Vũng Tàu.
Với những dấu ấn lịch sử vẫn còn được lưu giữ cho đến tận ngày nay, Khu di tích lịch sử cách mạng “Nhà cao cẳng” số 18 Lê Lợi đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 3 tháng 8 năm 1391.
Khu di tích lịch sử cách mạng nhà số 86
Khu di tích lịch sử cách mạng nhà số 86 nằm tại địa chỉ số 5, đường Phan Chu Trinh, phường 2, Thành phố Bà Rịa Vũng Tàu. Nơi đây đã từng là nơi sinh sống của một viên quan người Pháp, tên là Pierre Chappuis (1878 – 1359). Mặc dù ông là quan người Pháp, nhưng ông lại là một người thiện cảm và luôn ủng hộ những đường lối cách mạng, giành lại độc lập dân tộc của người dân Việt Nam.
Nhà cách mạng số 86 được xây dựng theo lối kiến trúc cũ của Pháp, với tường nhà được xây bằng đá xanh, mái được lợp bằng ngói nung. Điểm đặc biệt của ông Pierre Chappuis đó là ông có mối quan hệ thân thiết với chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà cách mạng số 86 đã được ông Pierre Chappuis sử dụng để làm nơi trú ẩn cũng như tổ chức các cuộc họp bí mật của những đồng chí Việt Minh.
Vào năm 1357, Nhà cách mạng số 86 đã trở thành văn phòng của Tỉnh ủy Bà Rịa – Long Khánh, nhằm thể hiện lòng hiếu kính và sự quý trọng đối với cách mạng Việt Nam của ông Chappuis. Mặc dù ông đã qua đời vào năm 1359, nhưng ngôi nhà 86 Phan Chu Trinh vẫn là biểu tượng của sự hy sinh và lòng thiện chí của ông Pierre Chappuis dành cho cách mạng Việt Nam.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 1392, Khu di tích lịch sử cách mạng nhà số 86 đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử Vũng Tàu được công nhận là di tích cấp quốc gia, nhằm tôn vinh những giá trị lịch sử, cũng như công lao to lớn mà ông ông Pierre Chappuis đã dành cho cách mạng Việt Nam.
Di tích lịch sử cách mạng Đồn nhà máy nước
Di tích Đồn nhà máy nước Vũng Tàu nằm gần ngã tư Giếng nước trên đường 30/4, thuộc phường 9, thành phố Bà Rịa Vũng Tàu. Nơi đây được xem là một minh chứng sống cho những cuộc kháng chiến chống quân xâm lược tiêu biểu của quân và dân Vũng Tàu.
Khu di tích ban đầu được xây dựng bằng đá, gạch, vôi, xi măng và gỗ, cùng những nguyên liệu khác với chiều dài lên đến 5m, rộng 3,7m và cao khoảng gần 4m.
Đồn nhà máy nước từng được xem là một trong những căn cứ chiến lược quan trọng của quân Pháp, nhằm bảo vệ hệ thống cấp nước quan trọng cho khu vực Vũng Tàu. Vì vậy mà trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đồn nhà máy nước trở thành mục tiêu quan trọng cần phải được loại trừ của lực lượng cách mạng.
Hai trận tiến công vào năm 1348 đã ghi dấu những trận đánh ác liệt, đóng góp vào chiến công lịch sử của quân dân tỉnh Vũng tàu trong công cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 1392, đồn nhà máy nước đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những khu di tích lịch sử Vũng Tàu, được công nhận là di tích cấp quốc gia. Sau khi được công nhận di tích cấp quốc gia, đồn nhà máy nước đã phải di dời đến một vị trí khác nhằm đảm bảo an toàn giao thông công cộng.
Tuy nhiên, hiện nay, di tích đồn nhà máy nước đang gặp phải tình trạng xuống cấp trầm trọng. Do đó mà nhà nước đang có một số chính sách hỗ trợ nhằm tu sửa và cải tạo khu di tích này, với mục đích gìn giữ những giá trị lịch sử quan trọng và làm tài liệu giáo dục cho thế hệ mai sau.
Khu di tích lịch sử Vũng Tàu – Đình thần Thắng Tam
Khu di tích đình thần Thắng Tam là một trong những khu di tích lịch sử nổi tiếng nhất Bà Rịa Vũng Tàu. Nằm tại địa chỉ số 77A, đường Hoàng Hoa Thám, phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đình thần Thắng Tam là một trong 3 ngôi đình nằm trên bán đảo Vũng Tàu còn nguyên vẹn nhất cho đến tận ngày nay.
Lịch sử hình thành của đền thần được người dân kể lại rằng, sau khi vua Gia Long cử 3 đội thủy binh đến biển Vũng Tàu để xây dựng đồn lũy với mục đích chống lại hải tặc và trấn giữ cửa biển. Sau khi đánh đuổi toàn bộ cướp biển, 3 đội thủy quân này tiếp tục giúp người dân nơi đây khai hoang và dựng làng lập ấp. Các ấp sau khi được lập nên được đặt tên lần lượt là Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam. Tại đây, dân làng đã xây dựng Đình thần Thắng Tam vào năm Canh Thìn (1820), sau đó tu bổ và trùng tu vào năm 1835 và 1365.
Đình thần Thắng Tam bao gồm cổng tam quan, đình chính, Lăng Ông Nam Hải, Miếu Bà Ngũ Hành và các khu vực như sân khấu Võ ca và nhà hội. Kiến trúc của đình Thắng Tam được lấy cảm hứng từ kiến trúc Nam Bộ, và được trang trí đẹp mắt với những họa tiết tinh xảo bởi những người thợ thủ công có tay nghề cao.
Không những thế, điểm đặc biệt của di tích đền thần Thắng Tam nằm ở việc lưu giữ 13 sắc phong của các vị thần và nhân vật lịch sử. Những sắc phong này được xem là những biểu tượng của niềm tin và tín ngưỡng tâm linh của người dân nơi đây.
Với những giá trị văn hóa được lưu giữ hàng trăm năm đó, mà vào ngày 25 tháng 3 năm 1391, khu di tích đền thần Thắng Tam đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia.
Khu di tích Thích Ca Phật Đài
Tọa lạc trên mạn sườn phía Bắc của Núi Lớn, Thích Ca Phật Đài tỏa sáng với bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang tọa thiền trên mảnh đất rộng khoảng 28ha. Tương truyền rằng, vào khoảng những năm 1340, ông Lê Quang Vinh, cùng với Đại đức Narada Maha Thera, đã khám phá vùng đất hoang vu này và quyết định xây dựng một ngôi chùa được đặt dưới chân núi, và đặt tên là Thiền Lâm tự.
Tuy nhiên, Đại đức Narada Maha Thera đã gợi ý xây dựng một bảo tháp lớn trên mạn sườn núi nhằm tôn vinh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Qua những cuộc vận động quyên góp, khuôn viên Thích Ca Phật Đài bắt đầu được đưa vào xây dựng với sự đóng góp và ủng hộ của nhiều tín đồ Phật tử tại miền nam Việt Nam lúc bấy giờ. Việc xây dựng và trang trí khuôn viên Thích Ca Phật Đài đã được thực hiện với sự chỉ đạo của các nhà lãnh đạo tâm linh và các nghệ nhân có tay nghề cao.
Vào ngày 4 tháng 6 năm 1361, Thích Ca Phật Đài chính thức được đưa vào khởi công và xây dựng. Sau 13 tháng thi công, Thích Ca Phật Đài đã được khánh thành thi công vào 2 ngày là ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1363. Thích Ca Phật Đài nổi bật với bức tượng Thích Ca Mâu Ni đang tọa thiền cùng bảo tháp xá lợi, đã trở thành một điểm đến không thể bỏ qua khi đến với Vũng Tàu.
Với những giá trị văn hóa to lớn của Thích Ca Phật Đài mà vào ngày 14 tháng 12 năm 1389, Khu di tích Thích Ca Phật Đài đã được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Vũng Tàu được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Di tích Phước Lâm Tự Vũng Tàu
Di tích chùa Phước Lâm là một trong những trung tâm Phật giáo lớn và và tồn tại lâu đời tại thành phố Bà Rịa – Vũng Tàu. Tọa lạc trên đường Nguyễn Bảo, phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, chùa đã trải qua hơn 200 năm hình thành, phát triển và bảo tồn từ thế kỷ thứ VII.
Kiến trúc của Phước Lâm tự vô cùng đặc biệt, với dãy nhà đơn sơ kiểu tứ tượng và ba tháp chuông trên nóc chùa, tạo nên nét độc đáo và thu hút mọi ánh nhìn. Trải qua nhiều giai đoạn trùng tu và mở rộng, cho đến nay, chùa Phước Lâm Tự vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống nhưng cũng không thiếu phần hiện đại.
Đặc biệt, Phước Lâm tự còn là nơi lưu giữ nhiều bảo vật quý hiếm và những tượng phật được tạc từ cách đây hàng trăm năm. Từ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm Nam Hải đến pho tượng Visnu quý hiếm từ thế kỷ VII. Sự hiện diện của những tượng phật và bảo vật này đã làm cho Phước Lâm tự trở thành điểm hành hương độc đáo của phật tử ở khắp mọi phương.
Chùa Phước Lâm Tự đã được nhà nước ta công nhận là một trong những khu di tích lịch sử nổi tiếng tại Vũng Tàu được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Di tích lịch sử trận địa pháo cổ Cầu Đá Vũng Tàu
Năm 1890, quan cai trị Pháp đã đề xuất xây dựng tiền cảng tại Vũng Tàu nhằm phục vụ mục đích quân sự và thương mại tại Đông Dương. Dự án này nhanh chóng được chính phủ Pháp phê duyệt và thực hiện từ năm 1896, khi một con đê dài hơn 400m được xây dựng ra giữa biển.
Công trình có thể được xem bản sao của “Vạn Lý Trường Thành” ở quy mô nhỏ hơn, khi để xây dựng con đê này, quân Pháp đã phải vận động hơn 45.000 tù nhân bị bắt buộc tham gia lao động và xây dựng đê. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành, người Pháp nhận ra rằng đê cảng này đã bị lỗi với hướng chạy ngược dòng nước và gây ra nhiều vấn đề về cát bùn và đập sóng.
Tuy nhiên, người Pháp đã nhanh chóng nhận ra giá trị chiến lược quân sự của cửa ngõ Vũng Tàu và phát triển nó thành một phòng tuyến quân sự có sức mạnh đáng kinh ngạc tại Đông Dương. Phòng tuyến Vũng Tàu bao gồm ba trận địa pháo có tổng cộng 23 khẩu đại pháo, được xây dựng trên các điểm cao như Núi Nhỏ và Núi Lớn. Các trận địa này đã trở thành điểm chốt quan trọng, nhằm đảm bảo an ninh cho Vũng Tàu. Đồng thời, nơi đây cũng trở thành điểm neo đậu cho hạm đội Pháp hoạt động ở Biển Đông.
Công trình phòng tuyến Vũng Tàu tại Cầu Đá không chỉ là một biểu tượng sức mạnh quân sự của thực dân Pháp tại Đông Dương, mà còn là một phần của di sản lịch sử đầy đau thương và mất mát tại vùng đất này.
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1994, khu di tích lịch sử trận địa pháo cổ Cầu Đá đã được nhà nước ta công nhận là một trong những khu di tích lịch sử Vũng Tàu quan trọng, được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Địa đạo Long Phước Vũng Tàu
Địa đạo Long Phước, được xây dựng từ năm 1948 tại xã Long Phước, thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Địa đạo ban đầu được nhân dân nơi đây xây dựng lên với mục đích tránh bom rơi đạn lạc trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ của quân và dân ta.
Với hệ thống hầm bí mật, địa đạo Long Phước đã gìn giữ và bảo vệ lực lượng cách mạng, đồng thời cung cấp lương thực, vũ khí và là nơi cứu chữa thương binh cho lực lượng chiến đấu.
Không những thế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Địa đạo Long Phước đã trở thành một thế trận vững chắc, giúp quân đội ta chống lại nhiều cuộc tấn công của quân địch, và là nơi để quân ta tiến công vào căn cứ quân sự của địch, góp phần vào chiến thắng cuối cùng giải phóng miền Nam vào năm 1975.
Với những đóng góp to lớn đó mà vào ngày 9 tháng 1 năm 1990, khu di tích Địa đạo Long Phước đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Kết luận
Qua bài viết trên, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu chi tiết 13 khu di tích lịch sử Vũng Tàu nổi tiếng, được nhà nước công nhận cấp quốc gia. Hy vọng với những gì mình chia sẻ đã có thể giúp cho bạn hiểu rõ hơn về những nét đẹp lịch sử, văn hoá cũng như con người nơi đây. Hãy luôn theo dõi mình để đọc thêm nhiều bài viết hữu ích khác nhé.